Quay về website thinhtrigroup.com

Trang chủ / Từ 1/9/2021, thêm nhiều điểm mới về BHXH cho người lao động

Từ 1/9/2021, thêm nhiều điểm mới về BHXH cho người lao động

02/09/2021


Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Theo Thông tư 06/2021/TT-BLĐTBXH sẽ có nhiều điểm mới đáng chú ý có lợi cho người lao động. Dưới đây là 4 điểm mới đáng chú ý mà Hệ thống Luật Thịnh Trí sẽ tổng hợp cho người đọc như sau:

+ Bổ sung mức hưởng chế độ ốm đau

Thông tư số 06/2021/TT-BLĐTBXH bổ sung mức hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động (NLĐ). Cụ thể, NLĐ thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản bị ốm đau, tai nạn mà không phải tai nạn lao động hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau mà thời gian nghỉ việc từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (bao gồm cả trường hợp nghỉ việc không hưởng tiền lương) thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Trường hợp các tháng liền kề tiếp theo người lao động vẫn tiếp tục bị ốm và phải nghỉ việc thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

+ Thay đổi về tiền lương tính hưởng chế độ ốm đau

Căn cứ khoản 3 Điều 1 Thông tư 06/2021, người lao động tham gia BHXH bắt buộc khi bị ốm đau, tai nạn (không phải tai nạn lao động), nghỉ việc chăm con dưới bảy tuổi bệnh từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (bao gồm cả trường hợp nghỉ việc không hưởng tiền lương) thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên cơ sở mức lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Thậm chí, nếu các tháng liền kề tiếp theo người lao động vẫn tiếp tục bệnh và phải nghỉ việc thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Hiện nay, mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của chính tháng người lao động nghỉ bệnh.

Bổ sung quy định về trường hợp hưởng trợ cấp tuất hằng tháng

Khoản 23 Điều 1 Thông tư 06/2021 bổ sung cuối Khoản 1 Điều 25 Thông tư 59/2015 như sau:

Thời điểm xem xét tuổi đối với thân nhân của NLĐ theo quy định tại khoản 2 Điều 67 Luật BHXH là kết thúc ngày cuối cùng của tháng NLĐ chết.

Khi giải quyết chế độ tử tuất nếu hồ sơ của thân nhân NLĐ không xác định được ngày, tháng sinh thì lấy ngày 01/01 của năm sinh để tính tuổi làm cơ sở giải quyết chế độ tử tuất.

Việc xác định mức thu nhập của thân nhân NLĐ để làm căn cứ giải quyết trợ cấp tuất hằng tháng theo quy định tại khoản 3 Điều 67 Luật BHXH được xác định tại tháng NLĐ chết.

Thân nhân đã được giải quyết hưởng trợ cấp tuất hằng tháng theo đúng quy định mà sau đó có thu nhập cao hơn mức lương cơ sở thì vẫn hưởng trợ cấp tuất hằng tháng.

Thêm trường hợp chồng được hưởng trợ cấp khi vợ sinh con

Theo Thông tư 59/2015, người chồng được nhận trợ cấp một lần khi vợ sinh con nếu thuộc một trong hai trường hợp sau: 1) Chỉ có cha tham gia BHXH thì cha phải đóng từ đủ sáu tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh con; 2) Người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ sáu tháng trở lên trong 12 tháng tính đến thời điểm nhận con.

Liên quan đến chế độ thai sản dành cho lao động nam khi vợ sinh con, Thông tư 06/2021 đã bổ sung một quy định quan trọng làm rõ trường hợp lao động nào được hưởng loại trợ cấp này.

Theo đó, người mẹ tham gia BHXH nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con, mà người cha đã đóng BHXH từ đủ sáu tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con thì người cha được hưởng trợ cấp một lần khi sinh con theo mức trợ cấp một lần = hai tháng lương cơ sở/con.

Như vậy, trường hợp cả hai vợ chồng cùng tham gia BHXH mà người vợ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản thì người chồng đóng BHXH đủ sáu tháng trong 12 tháng trước khi sinh con sẽ được hưởng trợ cấp một lần khi sinh con bằng hai tháng lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.

Ngoài ra, Thông tư 06/2021 cũng bổ sung quy định về thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nam khi vợ sinh con. Theo đó, nếu nghỉ nhiều lần thì thời gian bắt đầu nghỉ việc của lần cuối cùng vẫn phải trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con và tổng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không quá thời gian quy định.